Bảo vệ biên cương bằng cả “lý” lẫn “tình”
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập ngành ngoại giao Việt Nam (28-8-1945 / 28-8-2025), Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ đã có cuộc trao đổi với báo chí về vai trò của ngành ngoại giao trong công tác biên giới lãnh thổ. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Phóng viên (PV): Đề nghị Thứ trưởng cho biết vai trò của ngành ngoại giao Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong suốt 8 thập kỷ qua?
Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Minh Vũ: Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là một trong những sứ mệnh thiêng liêng, nhiệm vụ xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kể từ khi ra đời ngày 28-8-1945, suốt 8 thập kỷ qua, ngành ngoại giao Việt Nam luôn giữ vững vai trò là một trong 3 trụ cột trọng yếu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiên phong thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong việc khẳng định và gìn giữ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, đó là vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn các biện pháp hòa bình như đối thoại, đàm phán, công cụ pháp lý quốc tế và truyền thông đối ngoại để khẳng định tính chính nghĩa của dân tộc, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, tranh thủ thời cơ, hóa giải thách thức trong từng giai đoạn lịch sử, từ đó bảo vệ vững chắc cái “bất biến” là lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ công cuộc đấu tranh giành độc lập trong lịch sử đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay đều có sự đóng góp bền bỉ, thầm lặng mà rất đỗi tự hào của các thế hệ cán bộ ngoại giao Việt Nam. Đáng chú ý, đó không phải là bảo vệ chủ quyền một cách thuần túy mà là bảo vệ chủ quyền gắn với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy hợp tác và phát triển đất nước.
Trên đất liền, bằng ý chí, quyết tâm và nỗ lực không ngừng trong đàm phán, trên cơ sở kiên định về nguyên tắc và uyển chuyển về cách làm, với tinh thần tôn trọng, thiện chí và tuân thủ luật pháp quốc tế, chúng ta đã hoạch định được toàn bộ đường biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia; hoàn thành toàn bộ công tác phân giới, cắm mốc biên giới với Trung Quốc và Lào; hoàn thành 84% khối lượng công tác phân giới cắm mốc với Campuchia (hai nước cũng đang tích cực phối hợp đàm phán thúc đẩy giải quyết 16% khối lượng công tác phân giới, cắm mốc còn lại, trong đó ưu tiên giải quyết nhóm 6% liên quan đến hoán đổi đất theo mô hình MOU 2011); ký kết các văn kiện pháp lý về xác lập đường biên giới và quy chế quản lý biên giới với các nước, qua đó xây dựng và củng cố đường biên giới chung hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển; góp phần xây dựng hình ảnh một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, hội nhập sâu rộng và có uy tín trên trường quốc tế.
Trên biển, ngành ngoại giao Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan triển khai công tác xác lập và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam trên biển phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Việc ký kết các hiệp định, thỏa thuận quốc tế như Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam-Campuchia năm 1982, Hiệp định phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam-Thái Lan năm 1997, Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2000, Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa Việt Nam-Indonesia năm 2003; việc Việt Nam chính thức nộp hồ sơ đệ trình ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông năm 2024 hay gần đây nhất là việc Chính phủ ta công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ năm 2025 đều là những dấu mốc mang tính “lịch sử” trong quá trình Việt Nam xác lập vùng biển hợp pháp và giải quyết các vùng biển chồng lấn trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Bên cạnh đó, ta cũng thúc đẩy các cơ chế hợp tác biển song phương với các nước láng giềng như thỏa thuận về xác định khu vực thăm dò và khai thác chung dầu khí với Malaysia năm 1992, hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000... cũng như các chương trình đối thoại, hợp tác quốc tế về biển. Các cơ chế này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn góp phần củng cố tin cậy chiến lược, duy trì môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực cũng như tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết hòa bình các tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông.
Có thể nói, những thành quả này thể hiện tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh của Đảng và Nhà nước ta, trong đó, ngành ngoại giao vinh dự là đơn vị tiên phong thực hiện.
PV: Trong công tác biên giới lãnh thổ, nhiều chuyên gia đánh giá Việt Nam là một hình mẫu về giải quyết hòa bình các tranh chấp. Đề nghị Thứ trưởng cho biết kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn của Việt Nam?
Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Minh Vũ: Chúng ta kiên định kế thừa bài học của cha ông trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời thực hiện chính sách hòa hiếu với các nước láng giềng. Chúng ta cũng luôn nhất quán giải quyết mọi vấn đề biên giới lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc, các quy định của luật pháp quốc tế cũng như luật biển quốc tế đối với tranh chấp trên biển. Chính cách tiếp cận này đã giúp chúng ta giải quyết thành công nhiều khó khăn, vướng mắc trong công tác biên giới lãnh thổ. Việc ký kết và thực thi thành công hiệp ước biên giới trên đất liền với Lào năm 1977, với Trung Quốc năm 1999, hoàn thành phân giới cắm mốc toàn tuyến biên giới đất liền Việt-Trung năm 2008 và Việt-Lào năm 2007, cũng như hàng loạt hiệp định phân định biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng là minh chứng rõ rệt cho hiệu quả của cách tiếp cận này.
Hơn ai hết, Việt Nam hiểu rõ những hy sinh, mất mát do chiến tranh, vì vậy việc giải quyết hòa bình những bất đồng, khác biệt luôn là ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Trên cơ sở này, Việt Nam đã khéo léo gìn giữ được mối quan hệ hữu nghị, tốt đẹp với các nước láng giềng. Thực tế, tất cả quốc gia đều hưởng lợi khi duy trì được môi trường hòa bình, ổn định để tạo không gian cho hợp tác, phát triển đất nước. Việt Nam xác định rằng xây dựng lòng tin là nền tảng quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đó. Vì vậy, chúng ta luôn kiên trì thiết lập và duy trì các cơ chế đối thoại song phương và đa phương, triển khai hợp tác trong nhiều lĩnh vực tại khu vực biên giới, tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại, du lịch, giao lưu nhân dân phát triển bền vững đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự khu vực biên giới, biển, đảo.
Một kinh nghiệm quan trọng là cần sự phối hợp chặt chẽ giữa đối nội và đối ngoại, giữa các cấp, các ngành, các địa phương, tạo thống nhất cao trong thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể của công tác biên giới lãnh thổ. Đồng thời, phải gắn ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng với ngoại giao nhân dân, tức là phát huy vai trò của người dân vùng biên, cộng đồng học giả, truyền thông, để tạo "thế trận lòng dân" vững chắc, bảo vệ biên cương bằng cả “lý” lẫn “tình”.
Việc giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới lãnh thổ và đạt được kết quả xác lập đường biên giới như ngày hôm nay là minh chứng rõ nét cho trí tuệ, bản lĩnh và tầm vóc của ngoại giao Việt Nam, cho sự chung sức, đồng lòng của các cấp, các ngành, các địa phương vì một mục tiêu chung là bảo vệ giá trị cốt lõi của lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động, bài học kinh nghiệm của Việt Nam về tôn trọng luật pháp quốc tế, kiên định nguyên tắc về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lấy hòa bình, ổn định, phát triển làm mục tiêu, lấy hợp tác làm công cụ... vẫn còn nguyên giá trị. Việt Nam sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm đó với bạn bè quốc tế, vì một thế giới ổn định hơn, công bằng hơn và hòa bình hơn.
PV: Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!
Báo QĐND
VIỆT ĐOÀN (lược ghi)
Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ. Ảnh: TRÀ NGUYỄN